Giới thiệu Về nhà trường
TRƯỜNG THPT B BÌNH LỤC
– Địa chỉ: Trường được đóng trên địa bàn xã Vũ Bản – Bình Lục – Hà Nam
– Số điện thoai: 02263.865.205
– Hiệu trưởng: Trần Xuân Mạnh
50 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TRƯỜNG THPT B BÌNH LỤC (TIỀN THÂN LÀ TRƯỜNG CẤP 3 BÌNH LỤC B)
Trong những ngày mùa thu trong lành và mát mẻ này, ngôi trường thân yêu của chúng tôi tròn 50 tuổi. Thanh xuân của biết bao thế hệ trưởng thành từ nơi đây tròn 50 tuổi. Thật xúc động và tự hào biết bao! Đây là dịp đặc biệt để các thế hệ cán bộ, giáo viên, nhân viên và các thế hệ học sinh của nhà trường cùng hội ngộ, ôn lại những kỉ niệm với mái trường mến yêu và nhìn lại lịch sử hình thành phát triển của nhà trường.
Đầu những năm 1970, cả huyện chỉ có 1 trường THPT (nay là trường THPT A Bình Lục, đặt ở thị trấn Bình Mỹ) nên không đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh trong toàn huyện. Tháng 5 năm 1973, UBND tỉnh Nam Hà ra quyết định thành lập trường THPT B Bình Lục, ban đầu mọi người quen gọi là trường cấp 3B. Huyện chọn địa điểm đặt trường là làng Vũ Bị – xã Vũ Thành, là trung tâm 8 xã khu C của huyện. Đây là vùng đồng chiêm trũng còn rất nghèo khó nhưng nhân dân thiết tha mong con em được học lên cấp 3. Thầy Nguyễn Văn Gia lúc bấy giờ đang là Phó hiệu trưởng trường THPT Bình Lục (nay là THPT A Bình Lục) được điều về làm Hiệu trưởng nhà trường. Trung tuần tháng 7 năm 1973, sau kì thi Tuyển sinh vào lớp 8 (lúc bấy giờ là hệ 10 năm), Sở giao chỉ tiêu cho trường mở 6 lớp 8 và 2 lớp 9 đang học ở trường huyện quê ở khu C chuyển về học. Phải mất mấy buổi họp bàn, HTX mới quyết định dành khu ruộng cao nhất làng phía tây Chùa để làm trường với diện tích hơn 1 hecta. Bởi bờ xôi ruộng mật, người nông dân nghèo quý hạt gạo lắm nên phải chờ đến tháng 10 âm lịch gặt lúa mùa xong mới có thể đào móng đắp nền trường được. Mất ruộng người dân tiếc lắm nhưng họ vẫn đồng tình vì bớt đi bát cơm, đổi lại con cái được thêm cái chữ, đi học lại gần. Để có phòng học cho học sinh, lãnh đạo nhà trường, các thầy cô giáo nhà trường phải đi vận động dân làng. Ban đầu, nhân dân và ông tự chùa cho làm 2 phòng học bằng tranh tre tại khu vườn chùa, còn 2 phòng nữa thì nhờ đình và văn chỉ làng. Sau buổi họp Phụ huynh học sinh, mọi người hào hứng ủng hộ tre, rạ và góp công để làm 2 phòng học nữa. Thầy trò nhà trường cùng nhau san đắp nền, dọn lối đi. Sau 2 tuần thì làm xong phòng học dù chỉ là mái rạ, kèo tre, vách rơm trát bùn phải đợi khô quét vôi cho đỡ tối. Vậy là những tháng ngày đầu tiên cả trường chỉ có 4 phòng học và học sinh phải chia làm 2 ca. Những thế hệ giáo viên và học sinh đầu tiên của nhà trường chắc chắn không thể quên được những ngày tháng khó khăn, gian khổ ấy.
Lo được phòng học cho học sinh nhưng khó khăn vẫn còn chồng chất. Làm sao để có văn phòng nhà trường, có chỗ ăn ngủ cho giáo viên vì phần lớn giáo viên nhà xa trường, giao thông đi lại khó khăn? Thầy Nguyễn Văn Gia – Hiệu trưởng nhà trường nhờ gian tiền sảnh của nhà Chùa để làm văn phòng, dựng thêm gian bếp cạnh bếp của ông tự chùa để cô cấp dưỡng nấu cơm tập thể. Thầy Hiệu trưởng, thư kí Hội đồng trường và nhân viên văn phòng ở luôn đó. Tối thì vào Chùa nằm ngủ dưới chân những pho tượng Phật. Các thầy cô giáo thì ở trọ nhờ nhà dân trong xóm. Người dân quanh trường nhà tranh chật hẹp, lụp xụp, nhếch nhác, nước ao tù ngàu đục nhưng họ tốt bụng vô cùng, các thầy cô chỉ xin ở cùng còn tự lo ăn, làm. Thầy giáo Nguyễn Văn Gia – nguyên Hiệu trưởng nhà trường có kể lại những kỉ niệm đẹp, dân làng đùm bọc, cưu mang cán bộ, giáo viên trong trường: Bác Nhuận thương binh cụt tay thời chống Pháp ra tận trường xin đón 2 thầy giáo về ở, bác dành cả gian nhà thờ để các thầy soạn bài, lo giường nằm chu đáo. Còn bác Dục nhà có ruộng rau muống, mấy ngày lại cắp cả rổ rau non ra cho, bác còn bảo cô cấp dưỡng “Nếu đi đong gạo mậu dịch nhỡ, chị cứ vào nhà tôi lấy gạo nấu cơm cho các thầy, đừng để đứt bữa”. Hay chuyện một bà cụ đội vò mắm tép đến biếu trường, bà bảo:“ Tôi là bà nội cháu Thuận ở xóm Gòi Hạ xã An Nội. Bố cháu là bộ đội đi chiến trường 7 năm rồi. Cháu Thuận được vào học trường cấp 3, cả nhà mừng lắm. Nơi tôi đồng trũng, mùa tháng 9, tháng 10 rất sẵn tép. Đây là tép nhà kiếm được muối từ vụ năm ngoái đã ngấu đem biếu các thầy chấm rau. Món ăn xoàng xĩnh mong thầy không chê”. Vậy là tờ báo tường của nhà trường xuất hiện những câu thơ:
Một vò mắm tép đỏ tươi
Mẹ từ Gòi Hạ lên chơi tặng trường
Thương thày mặn muối, lạt lương
Bát canh cải ngọt, tình thương trăm lần
Các thầy cô giáo đầu tiên của nhà trường: Thầy Nguyễn Văn Gia (Gv Vật lí – nguyên Hiệu trưởng nhà trường), Thầy Nguyễn Minh Tân (Gv Chính trị – nguyên Phó hiệu trưởng nhà trường), Thầy Trần Văn Hường (Gv Ngữ văn), Thầy Cao Đức Đạm (Gv Lịch sử),….đều ở xa trường, giao thông đi lại vô cùng khó khăn. Đường vào trường toàn là đường đất nhỏ hẹp, gồ ghề, động mưa bão là trơn, chỉ có sắn quần lội chân không, dép giày thành gánh nặng. Xe đạp đi vào đường ấy mà trời mưa thì cũng phát ốm. Đường đất như thế, chuyển được viên gạch, cây luồng, thúng cát, bì vôi,… để làm trường là cả một khó khăn.
Những ngày tháng khó khăn đầu tiên cũng dần trôi qua, vài năm sau, thầy Nguyễn Văn Gia và Hội đồng sư phạm nhà trường tạo được nhiều uy tín với lãnh đạo và nhân dân địa phương. Nhà trường bắt đầu được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. Cơ ngơi nhà trường với nhà xây, ngói lợp, cửa kính bắt đầu được hình thành. Đến năm thứ 4, thứ 5, nhà trường đã xây được những dãy nhà cấp 4, việc học của học sinh dần đi vào ổn định nhưng nhà trường vẫn phải đối diện với rất nhiều khó khăn. Số lượng học sinh đông với vùng cứng tuyển sinh rộng gồm các xã: Vũ Bản, Bồ Đề, An Nội, Trung Lương, Ngọc Lũ, Hưng Công. Nhà trường lại được xây dựng giữa đồng nên việc bị mất trộm cơ sở vật chất vẫn diễn ra. Điều này đặt ra yêu cầu bức thiết là phải xây dựng thêm cơ sở vật chất. Bằng nguồn ngân sách của tỉnh và sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân địa phương, cơ sở vật chất của nhà trường dần được đổi mới. Có thể hình dung các giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường như sau:
– Giai đoạn 1973-1983: “Ngói hoá”, nhà lớp ngói thay cho nhà lợp lá tre, lá mía, rơm, rạ.
– Giai đoạn 1983-1993: “Bê tông hoá”, các dãy nhà đổ mái bê tông được xây dựng để tránh mưa.
– Giai đoạn 1993-2003: Bắt đầu xây dựng các khu nhà cao tầng, tăng cường thêm phòng học, tạo điều kiện tốt hơn cho việc dạy và học.
– Giai đoạn 2003-2013: Hiện đại hoá, các phòng học được trang bị thêm các trang thiết bị phục vục việc dạy và học, các phòng học bộ môn cũng được xây dựng và đưa vào sử dụng để nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Cùng với sự thay đổi về cơ sở vật chất, số lượng các lớp học cũng thay đổi. Năm học đầu tiên của nhà trường(1973 – 1974) nhà trường có 8 lớp. Sau 1980 nhà trường ổn định có 12 lớp. Từ 1990 nhà trường có 18 lớp. Từ năm 2000 số lớp của nhà trường là 27. Đặc biệt năm học 2006 – 2007 nhà trường có 33 lớp. Từ năm 2007 – 2012 nhà trường có 30 lớp. Và từ năm 2013 đến nay, nhà trường giữ ổn định 27 lớp. Trải qua nửa thế kỉ, nhà trường đã đào tạo được gần 20.000 học sinh.
Tính đến nay, trải qua 50 năm xây dựng và trưởng thành, nhà trường đã có 5 thầy Hiệu trưởng lãnh đạo nhà trường: Thầy Nguyễn Văn Gia (Hiệu trưởng nhà trường từ năm 1973 đến năm 1982). Thầy Hoàng Văn Tần ( Hiệu trưởng nhà trường từ năm 1982 đến năm 1997). Thầy Trần Văn Huấn ( Hiệu trưởng nhà trường từ năm 1997 đến năm 2011). Thầy Lê Trọng Hậu (Hiệu trưởng nhà trường từ năm 2011 đến năm 2022). Và thầy Trần Xuân Mạnh lãnh đạo nhà trường từ 1/2023 đến nay.
Khó khăn về mặt đội ngũ GV cũng là một vấn đề lớn mà nhà trường phải đối mặt. Trong nhiều năm, nhà trường luôn trong tình trạng thiếu GV do lượng GV thuyên chuyển công tác nhiều, có giai đoạn nhà trường còn được gọi là trạm trung chuyển của GV trong tỉnh. Đặc biệt trong giai đoạn chia tách tỉnh thành Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình(1997) thì một nửa GV chuyển về Nam Định. GV của nhà trường lại có nhiều thầy cô ở xa như Nghệ An, Thanh Hoá, Hà Nội,…gây trở ngại không ít cho việc dạy và học của nhà trường. Tuy nhiên, GV nhà trường phần lớn là những người nhiệt huyết, nhiệt tình, sẵn lòng chia sẻ khó khăn với nhà trường và nhân dân nên các phong trào thi đua của nhà trường đặc biệt là phong “Thi đua Hai tốt” luôn đạt được những kết quả cao. Có rất nhiều thầy cô từng là học sinh sau khi tốt nghiệp đại học lại tiếp tục về cống hiến cho nhà trường như thầy Trần Ngọc Hà, Lưu Văn Lực, Trần Bá Duy….; cô Trần Thị Mai Phương, Trương Thị Lý, Nguyễn Thị Hà…Các thầy cô đã nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn trong cuộc sống, công việc để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, tích cực tham gia các hoạt động chuyên môn và được công nhận Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh như cô Nguyễn Thị Ngần; Nguyễn Thị Ngọc Loan, Đỗ Thị Ninh Nhâm, Trần Thị Thanh Hòe ,… và giáo viên chủ nhiệm giỏi cấp tỉnh như cô Phạm Thị Phương Thảo. Với những nỗ lực, những thành tích đáng tự hào, nhiều thầy cô được nhận Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh; Bộ trưởng Bộ Giáo dục như thầy Trần Thế Huyền, cô Nguyễn Thị Ngần; Nguyễn Thị Ngọc Loan; Trần Thị Huyền…. Đặc biệt, mỗi thầy cô luôn cố gắng rèn luyện đạo đức, tác phong nhà giáo và dành tất cả nhiệt huyết, tình yêu thương cho học trò nên luôn được các em yêu quý, tin tưởng, nể phục.
Khoảng từ những năm 2010, cùng với sự phát triển của xã hội, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đặc biệt là sự bùng nổ thông tin của thời đại Công nghệ 4.0, nhà trường đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Phong trào Xã hội hoá giáo dục được triển khai cùng với sự nỗ lực cố gắng của Hội đồng Sư phạm nhà trường, ngôi trường THPT B Bình Lục ngày càng trở nên khang trang, hiện đại. Hiện tại nhà trường đã có 5 khu nhà với các phòng học, phòng chức năng được trang bị đầy đủ bàn ghế, quạt mát, cửa kính và 2 khu nhà đa năng . Trong đó, khu nhà A là khu Hiệu bộ, Khu nhà B gồm các phòng học của khối lớp 10, khu nhà C gồm các phòng học của khối lớp 11, khu nhà D gồm các phòng học của khối lớp 12, khu nhà E gồm các phòng học thực hành của tất cả các bộ môn. Khuôn viên nhà trường được tu sửa khang trang, khoa hoc. Sân trường rộng rãi, thoáng, sạch tạo điều kiện tốt nhất cho các buổi tập trung, sinh hoạt tập thể. Các bồn hoa, cây cảnh được bố trí phù hợp tạo không gian học tập và làm việc thoải mái cho học sinh và giáo viên.
Với nửa thế kỉ xây dựng và phát triển, nhà trường đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào khi được tặng thưởng nhiều Bằng khen, giấy khen cờ thi đua của UBND Tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo, Trung ương Đoàn, Tỉnh Đoàn, UBND Huyện Bình Lục; liên tục đạt danh hiệu “Trường tiên tiến” và nhiều năm đạt danh hiệu “Tiên tiến xuất sắc”, Chi bộ liên tục đạt danh hiệu “Trong sạch vững mạnh”. Đặc biệt, năm 1984 là đơn vị dẫn đầu giành cờ luân lưu của Hà Nam Ninh. Năm 2019, nhà trường được công nhận đạt kiểm định chất lượng giáo dục cấp độ 2 và đạt chuẩn quốc gia Mức độ 1. Năm 2004, trường được UBND tỉnh Hà Nam công nhận là Đơn vị văn hóa. Năm học 2022-2023, với những thành tích vượt bậc, trường được nhận Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo. Các thế hệ giáo viên, học sinh đã và đang tiếp tục viết nên những trang vàng truyền thống của nhà trường.
Trên hành trình 50 năm, cùng với sự phát triển của nhà trường là quá trình trưởng thành của các thế hệ học sinh. Từ mái trường B Bình Lục, nhờ sự dạy dỗ, yêu thương của thầy cô, sự nỗ lực của bản thân, đã có rất nhiều học sinh thành đạt với 3 tướng, 2 GS, 5 PGS, nhiều tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân và có những đóng góp giá trị cho đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương nói riêng và đất nước nói chung. Trong lĩnh vực anh ninh trật tự, có anh Nguyễn Bình Ban, PGS.TS, Thiếu tướng, nhà giáo ưu tú, nguyên viện trưởng viện Lịch Sử CAND; anh Trần Đăng Yến, Trung tướng Công an, nguyên là Cục trưởng Cục Ngoại tuyến, Bộ Công an Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an (Việt Nam), nguyên Thủ trưởng Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; và rất nhiều các cựu học sinh là đại tá CAND như anh Nguyễn Văn Thuy, anh Trần Đình Yên, anh Trần Mạnh Thịnh cựu học sinh khóa 1, anh Trần Hữu Việt cựu học sinh khóa 2; anh Trần Minh Tiến, khóa 14, Giám đốc công an Nam Định, anh Chu Văn Phú, khóa 16, nguyên Phó Cục trưởng cục Điều tra phòng chống tội phạm về ma túy (C04) Bộ Công An – Phó Giám đốc công an tỉnh Nam Định; anh Trần Thanh Khôi, khóa 16, Đại tá – Chính ủy Trường Sỹ quan Công binh, Binh chủng công binh, Bộ Quốc phòng; …Trong lĩnh vực giáo dục, có nhiều anh chị cựu học sinh trở thành nhà giáo ưu tú, giảng viên, giáo viên như anh Nguyễn Văn Lâm Khoá 1; anh Phạm Thành Nam khóa 30,… Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, có nhiều anh chị đạt học vị tiến sĩ, có những đóng góp lớn lao cho sự phát triển của khoa học như chị Trần Thị Mai Phương, Khoá 3, PGS.TS Viện chăn nuôi Bộ Nông Nghiệp và PTNT; chị Trần Thị Tuyến, khóa 27, Tiến sĩ, Viện Hóa học các Hợp chất thiên nhiên-Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; anh Nguyễn Bá Triệu khóa 19, Tiến sỹ, Trưởng ban tổ chức, hành chính Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam,… Trong lĩnh vực chính trị, có nhiều anh chị cựu học sinh trở thành những chính trị gia đã và đang hoạt động tích cực như anh Bùi Văn Hùng, khóa 18, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Phủ Lí; anh Trần Xuân Dưỡng hiện đang là Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam; anh Nguyễn Đăng Định, khóa 13 hiện là Phó chủ tịch UBND huyện Bình Lục; anh Trần Xuân Dũng, khóa 8 đang đảm nhiệm vị trí Chủ tịch UBND huyện Bình Lục và nhiều anh chị đang là Chủ tịch UBND xã, Bí thư Đảng Ủy xã như anh Nguyễn Văn Nam, anh Trần Văn Thắng, anh Đặng Văn Cử… Trên lĩnh vực kinh tế, có nhiều cựu học sinh gặt hái thành công như anh Trần Nam, anh Trần Trung, khóa 9, chủ tịch tập đoàn Milton; . Các anh chị chính là những tấm gương sáng để các thế hệ học sinh đàn em phấn đấu học tập và tiếp bước.
Nhìn lại chặng đường 50 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, chúng ta càng thêm yêu, thêm tự hào về mái nhà Bình Lục B thân yêu. Chúng ta tin tưởng và hi vọng rằng với sự chỉ đạo của Sở GDĐT Hà Nam, sự quan tâm chỉ đạo của các cấp Uỷ đảng, chính quyền địa phương, sự lãnh đạo của chi uỷ, Lãnh đạo nhà trường cùng sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh nhà trường, trong thời gian tới cơ sở vật chất và chất lượng dạy và học của nhà trường sẽ ngày càng khang trang và phát triển. Nhà trường cũng mong nhận được nhiều hơn nữa sự quan tâm, đầu tư của các cấp chính quyền, của nhân dân và các thế hệ học sinh của nhà trường.
